Thuốc điều trị tiểu đường tuýp 2 của AstraZeneca giảm nguy cơ tử vong cho người suy tim
Thuốc Farxiga của AstraZeneca giúp giảm đáng kể nguy cơ nhập viện và tử vong ở những người mắc tất cả loại suy tim, theo dữ liệu nghiên cứu được công bố hôm 27.8.
Farxiga thuộc nhóm thuốc ức chế SGLT2, ban đầu được phê duyệt để điều trị bệnh tiểu đường tuýp 2. Cụ thể là cải thiện kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 trên 18 tuổi.
Sau đó, Farxiga đã được chứng minh là có lợi cho người bị bệnh tim, thận mãn tính và ngăn ngừa các cơn đau tim.
AstraZeneca (Anh-Thụy Điển) cho biết Farxiga là thuốc điều trị suy tim đầu tiên cho thấy lợi ích giảm tỷ lệ tử vong trên tất cả các dạng suy tim.
Dữ liệu chi tiết từ một nghiên cứu có tên DELIVER đánh giá Farxiga ở những bệnh nhân bị suy tim đặc trưng bởi phân suất tống máu giảm nhẹ hoặc bảo tồn được trình bày tại đại hội Hiệp hội Tim mạch châu Âu ở Barcelona (Tây Ban Nha).
Phân suất tống máu là chỉ số thể hiện khả năng bơm máu của tim đi đến khắp cơ thể. Tim co bóp và giãn nở ở mỗi nhịp đập. Trong lúc co bóp, tim đẩy một lượng máu lớn ra khỏi các buồng tim tâm thất. Các buồng tim tâm thất này sau đó lại được đổ đầy máu lại khi tim giãn ra.
Phân suất tống máu là tỉ lệ phần trăm lượng máu mà tim đẩy ra được trong một lần co bóp. Tỷ lệ này chủ yếu là để chỉ phân suất tống máu của thất trái, nơi bơm máu đến đầu, tay, thân, bụng và chân.
Phân suất tống máu là chỉ số quan trọng để khảo sát chức năng của tim, nếu như tỉ lệ này thấp thì đây là dấu hiệu cho một bệnh lý ở tim. Chỉ số này còn được sử dụng để lập kế hoạch điều trị.
Farxiga đã đáp ứng mục tiêu chính của nghiên cứu, làm giảm 18% nguy cơ tử vong liên quan đến tim, nhập viện do suy tim và các lần khám khẩn cấp do suy tim có ý nghĩa thống kê.
Theo lời Ruud Dobber, người đứng đầu bộ phận kinh doanh sinh học của AstraZeneca, nếu các cơ quan quản lý chứng nhận việc sử dụng thuốc điều trị suy tim trên phạm vi rộng hơn dựa trên dữ liệu này thì số bệnh nhân có thể được chữa bằng Farxiga sẽ tăng 50%.
Jardiance, loại thuốc của công ty Boehringer Ingelheim (Đức), có khả năng giống Farxiga trong nghiên cứu liên quan đến những bệnh nhân tương tự vào năm ngoái.
Một phân tích tổng hợp của DELIVER và một thử nghiệm khác bao gồm khoảng 11.000 bệnh nhân suy tim kết hợp cho thấy Farxiga giảm 14% nguy cơ tử vong do các nguyên nhân tim mạch, có cả đau tim, và 10% tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào. Thuốc cũng giảm gần 1/3 nguy cơ nhập viện vì suy tim.
Suy tim xảy ra khi cơ tim không thể bơm máu hiệu quả như bình thường, có thể gây ra hàng loạt vấn đề sức khỏe nghiêm trọng và tử vong. Trong số 64 triệu bệnh nhân suy tim trên toàn cầu, khoảng một nửa bị giảm phân suất tống máu, bằng hoặc dưới 40%. Số còn lại có phân suất tống máu giảm nhẹ hoặc bảo tồn.
Pardeep Jhund, Giáo sư tim mạch tại Đại học Glasgow (Scotland) từng nghiên cứu phân tích DELIVER, nói bất kể phân suất tống máu thấp hay cao, lợi ích của Farxiga là nhất quán.
Dù hiện có nhiều phương pháp điều trị suy tim, bệnh nhân vẫn tiếp tục có tiên lượng xấu, vì vậy việc bắt đầu điều trị thay vì chờ đợi các xét nghiệm để xác định phân suất tống máu là chìa khóa. Phân tích này cho thấy rằng không cần phải chờ đợi, Pardeep Jhund nói.
Nó cũng giải quyết những nghi ngờ rằng những bệnh nhân ở phân suất tống máu khoảng 65% hoặc cao hơn sẽ không thu được lợi ích tương tự, những lo ngại nảy sinh với dữ liệu thử nghiệm Jardiance.
Năm ngoái, Farxiga chỉ đạt doanh thu hơn 3 tỉ USD. Vào năm 2022, Farxiga đã đạt doanh thu khoảng 1 tỉ USD mỗi quý.
Đồng tác giả nghiên cứu Scott Solomon, giáo sư y khoa tại Trường Y Harvard và Bệnh viện Brigham and Women (Mỹ), cho biết phân tích này đẩy chất ức chế SGLT2 lên vị trí hàng đầu trong điều trị suy tim.
Các bác sĩ có thể sẽ chọn Farxiga hoặc Jardiance dựa trên tính sẵn có và chi phí, điều này “có thể sẽ quan trọng hơn bất kỳ sự khác biệt tiềm ẩn nào giữa các liệu pháp đó”, ông nói.
Hôm 14.8, AstraZeneca cho biết thử nghiệm giai đoạn cuối đã xác nhận lợi ích của thuốc điều trị ung thư vú Enhertu ở những người mắc bệnh dạng nặng được điều trị trước đó bằng liệu pháp khác.
Trong thử nghiệm có tên DESTINY-Breast02 với 600 bệnh nhân, Enhertu (do AstraZeneca và Daiichi Sankyo phát triển) đã được so sánh với phương pháp điều trị bởi các bác sĩ ở những người bị ung thư vú di căn dương tính với HER2.
AstraZeneca cho biết thử nghiệm đánh giá một quần thể bệnh nhân ung thư vú tương tự như thử nghiệm giữa giai đoạn DESTINY-Breast01. Đây là cơ sở cho những phê duyệt ban đầu ở châu Âu và một số quốc gia khác.
Trong nghiên cứu DESTINY-Breast02, Enhertu đã đáp ứng mục tiêu chính là cải thiện đáng kể về mặt thống kê và có ý nghĩa lâm sàng với khả năng sống sót không tiến triển, thước đo về thời gian một người có thể sống mà bệnh của họ không trở nên tồi tệ hơn. Thuốc cũng cải thiện khả năng sống sót tổng thể, một mục tiêu thứ yếu.
Protein HER2 dẫn đến sự phát triển và lây lan của ung thư vú. Theo AstraZeneca, khoảng 1/5 bệnh nhân bị ung thư vú được coi có dương tính với HER2.
Đầu tháng này, AstraZeneca và Daiichi Sankyo đã bảo đảm sự chấp thuận của Mỹ nhắm mục tiêu cụ thể đến những bệnh nhân được gọi là ung thư vú HER2 thấp, mở đường cho doanh thu hàng tỉ USD.
Sự chấp thuận đầu tiên của Enhertu được đưa ra vào cuối năm 2019, như phương pháp điều trị hàng thứ ba cho bệnh nhân ung thư vú dương tính với HER2 ở Mỹ. Kể từ đó, Enhertu cũng đạt được nhiều sự chấp thuận ở các cơ sở ung thư vú khác cũng như các dạng ung thư phổi và dạ dày.
Loại thuốc này đạt doanh thu 214 triệu USD vào năm 2021, thuộc một loại liệu pháp được gọi là liên hợp thuốc kháng thể. Enhertu bao gồm một kháng thể đơn dòng được liên kết hóa học với một loại thuốc hóa trị liệu tiêu diệt tế bào.
AstraZeneca đã bảo đảm một phần quyền với khu phức hợp Daiichi Sankyo ba năm trước trong một thỏa thuận trị giá lên tới 6,9 tỉ USD, thách thức nhà sản xuất thuốc trị ung thư lớn nhất thế giới là Roche.
Enhertu kể từ đó đã được chứng minh là có thể giúp những phụ nữ bị ung thư vú với mức độ cao protein HER2, khi so sánh với thuốc ADC Kadcyla của Roche. Điều này dẫn đến sự chấp thuận ban đầu của thị trường vào cuối năm 2019.
AstraZeneca đang thử nghiệm thuốc chống lại các bệnh ung thư dạ dày, phổi và đại trực tràng.