Nghệ An: Nhiều điểm sáng trong phát triển ngành nông nghiệp

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, đại hội đảng các cấp và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 đã trải qua nửa nhiệm kỳ, Nghệ An đã chủ động cụ thể hóa việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và bước đầu đã đạt những kết quả đáng khích lệ đối với ngành nông nghiệp.

0

Đạt được nhiều tín hiệu tích cực

Lãnh đạo tỉnh Nghệ An đã đi kiểm tra các mô hình sản xuất nông nghiệp tại huyện Hưng Nguyên.

Theo Cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm của tỉnh ước đạt 5,79%, cao hơn bình quân cả nước ước đạt 4,59%. Trong đó, ngành Nông nghiệp Nghệ An vượt qua nhiều thách thức, nỗ lực phục hồi, tăng trưởng theo hướng xanh, ổn định và bền vững.

Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 22.729,664 tỷ đồng tăng 4,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nông nghiệp tăng 3,77%; lâm nghiệp tăng 6,85% và thủy sản tăng 5,24%.

Tổng sản lượng lương thực cây có hạt 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 800.918,39 tấn/1.421.800 tấn theo kế hoạch, đạt 64.5%; thủy hải sản ước đạt 143.726,6 tấn/255.000 tấn theo kế hoạch, đạt 56,36% so với kế hoạch năm, tăng 4,36% so với cùng kỳ năm trước, diện tích nuôi trồng thủy sản 6 tháng ước đạt 20.879 ha. Trồng mới rừng tập trung trên 10.810 ha, tăng 11,13 % so với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ che phủ rừng đạt 58,36%.

Song hành với chuyển dịch cơ cấu, ngành nông nghiệp cũng tranh thủ các nguồn lực, lồng ghép có hiệu quả nguồn vốn từ các chương trình, dự án để tập trung đầu tư, nâng cấp hạ tầng nông thôn, các công trình thủy lợi. Qua đó, thu hút doanh nghiệp đầu tư gắn với liên kết sản xuất tiêu thụ và chế biến sâu nhằm gia tăng giá trị sản phẩm.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được tập trung triển khai thực hiện; đến tháng 6 năm 2023 toàn tỉnh có 309/411 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 96,86%; có 53 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (chiếm 17,15% xã nông thôn mới), đạt 72,6% kế hoạch; 6 xã đạt nông thôn mới kiểu mẫu; Bình quân tiêu chí cả tỉnh là 16,98 tiêu chí/xã; có 197 thôn/bản đạt chuẩn nông thôn mới.

Có 9 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới đó là thành phố Vinh, thị xã Thái Hoà, huyện Nam Đàn, huyện Yên Thành, huyện Nghi Lộc, thị xã Hoàng Mai và huyện Quỳnh Lưu, huyện Đô Lương, huyện Diễn Châu.

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) tạo ra những sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng; đến cuối năm 2022, tỉnh đã có 403 sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP cấp tỉnh đạt chất lượng từ 3 sao trở lên…

Những kết quả đã đạt được là đòn bẩy quan trọng để ngành nông nghiệp Nghệ An thể hiện vai trò ngành kinh tế chủ lực, thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi ruộng đất và nâng cao các chuỗi giá trị sản xuất, chuyển mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp.

Chuỗi liên kết đã dần được hình thành

Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 tăng 4,17% so với cùng kỳ năm trước

Xây dựng liên kết, hợp tác sản xuất theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển đang là hướng đi trọng tâm của tỉnh Nghệ An và bước đầu đạt được kết quả. Tiêu biểu như liên kết sản xuất thức ăn xanh cho chăn nuôi bò sữa ở Thái Hoà, Nghĩa Đàn của Công ty Cổ phần thực phẩm sữa TH và Công ty Cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk; Liên kết sản xuất mía nguyên liệu cho chế biến đường của 3 nhà máy đường; Liên kết sản xuất nguyên liệu nhà máy chế biến tinh bột sắn; liên kết sản xuất sản xuất chè, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cam Vinh… ; hình thức tổ chức sản xuất được đổi mới theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung, quy mô lớn, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm. Vì vậy, ngành nông, lâm, thủy sản của tỉnh có tốc độ tăng trưởng khá cao, luôn khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Giá trị Tổng sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp (GRDP) cả năm 2022 toàn ngành ước đạt 20.380,33 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng (GRDP) ước đạt 4,78%/KH4,5-5,0%, cao nhất vùng Bắc Trung Bộ.

Trên thực tế, Nghệ An có nhiều sản phẩm lợi thế của địa phương và nhiều sản phẩm mang tính đặc trưng vùng miền khác nhau. Tỉnh Nghệ An cũng đã không ngừng nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, tập trung thu hút các dự án đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản trên địa bàn. Nhiều hình thức hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị giữa hợp tác xã với doanh nghiệp ở Nghệ An đã trở nên khá phổ biến. Các công ty, doanh nghiệp lớn tiếp tục chọn Nghệ An để xây dựng và hình thành chuỗi sản phẩm khép kín, vừa góp phần xây dựng thương hiệu nông nghiệp sạch, vừa tạo công ăn việc làm cho người dân.

Đến nay, đã hình thành và phát triển một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung như chè 8.646 ha, cao su 9.368 ha, mía 20.206 ha, lạc 12.902 ha, cam 4.735 ha, dược liệu 1.460 ha và một số vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, bao gồm: vùng chiến lược thúc đẩy sản xuất nông sản an toàn ở Vinh, Cửa Lò (rau an toàn, trứng gà).

Vùng sản xuất nguyên liệu thô cho chế biến thực phẩm, xuất khẩu: Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Lộc, Đô Lương, Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, TX Hoàng Mai (lạc, vừng, gạo); vùng chiến lược thúc đẩy sản xuất nông sản có giá trị gia tăng cao: Thanh Chương, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quỳnh Lưu, Nam Đàn, TX Thái Hòa và vùng thúc đẩy sản xuất nông sản đặc dụng: Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu (gừng, tỏi, cây ăn quả, chè, bò mông, lợn đen, gà đen).

Tuy nhiên, quá trình hình thành và phát triển các chuỗi giá trị trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp không ít khó khăn, hiệu quả chưa cao. Trong tổng số các HTX đang hoạt động trên địa bàn tỉnh còn khá nhiều HTX hoạt động chưa hiệu quả, đa số HTX và nông dân đều thiếu vốn đầu tư mở rộng sản xuất…, số lượng chuỗi giá trị được hình thành vẫn còn ít, quy mô nhỏ. Tình trạng được mùa, mất giá vẫn là cái khó chung của ngành nông nghiệp cả nước và của Nghệ An, đầu ra cho nông sản không ổn định. Bên cạnh đó, tính liên kết giữa người dân và doanh nghiệp chưa chặt chẽ; công tác quản lý nhà nước về thực hiện hợp đồng liên kết giữa doanh nghiệp và người nông dân còn bất cập…

Phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu.

Mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Tập đoàn TH ở Nghĩa Đàn

Bên cạnh những kết quả tích cực, ngành Nông nghiệp Nghệ An vẫn còn những hạn chế do tác động của các yếu tố như thiên tai, dịch bệnh; giá nhiên liệu và các loại vật tư nông nghiệp tăng cao. Thêm vào đó, việc thực thi các chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản, thực phẩm an toàn ở một số địa phương còn chậm,… dẫn đến sản lượng và quy mô còn hạn chế; chất lượng nông, lâm, thủy sản chưa đồng đều, giá trị cạnh tranh thấp.

Giai đoạn 2021 – 2025, tỉnh Nghệ An đặt mục tiêu phấn đấu, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm ngành Nông nghiệp đạt bình quân 4 – 4,5 %/ năm; tốc độ tăng năng suất lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân từ 5 – 5,5%/năm. Phấn đấu trên 50% HTX hoạt động có hiệu quả, trên 10% HTX ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp; trên 50% HTX nông nghiệp tham gia liên kết theo chuỗi giá trị; 75% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; 100% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh; phấn đấu đến năm 2025, có 82% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó, 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 5% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu) và 11 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó, có 1 huyện đạt huyện nông thôn mới kiểu mẫu)…

Để thực hiện được các mục tiêu trên, tỉnh Nghệ An tiếp tục thực hiện cơ cấu lại ngành Nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản; bảo vệ môi trường sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp thuận tự nhiên gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thích ứng với biến đổi khí hậu và kết nối bền vững với chuỗi giá trị nông sản toàn quốc; chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp.

Ông Phùng Thành Vinh, Giám đốc Sở NN & PTNT tỉnh Nghệ An cho biết: Để hoàn thành mục tiêu, trước hết, tập trung thực hiện hiệu quả các chương trình, kế hoạch của tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ cấu lại ngành Nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; lựa chọn và sắp xếp thứ tự ưu tiên, lộ trình thực hiện các nhiệm vụ để tạo chuyển biến rõ nét trong tăng trưởng chung của toàn ngành.

Đồng thời, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; cơ giới hóa trong sản xuất; tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh, liên kết phát triển các chuỗi giá trị nông sản chất lượng cao; nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Những kết quả khả quan sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 sẽ là cơ sở, tiền đề để ngành Nông nghiệp Nghệ An vượt lên khó khăn, thách thức, tranh thủ các cơ hội, phát huy tiềm năng, lợi thế, vững bước trên chặng đường tiếp theo, phấn đấu hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, chỉ tiêu đã đặt ra.

Tác giả: Lê Thìn

Nguồn: doanhnghiepkinhtexanh.vn